Màu nền của gà rừng trống trưởng thành là màu đen cùng với đủ mọi sắc độ đỏ và vàng ở cổ, cánh và lưng. Lông đuôi hẹp về phương ngang, lông phụng tá đều và ngắn hơn nhiều so với lông phụng chủ. Độ dài trung bình lông đuôi từ 14.3 đến 19.9 cm. Tổng số lông đuôi của một con gà trưởng thành hoàn toàn là 12, mỗi bên có 6 cái. Số lượng lông phụng tá là 4 cái mỗi bên.
Ở cá thể lai điển hình, lông phụng tá dài hơn và nhiều cái cong xuống chụm vào lông phụng chủ. Màu của các lông phụng chủ và phụng tá là ánh kim đen với tông xanh. Đầu gà rừng tương đối nhỏ. Mồng lá, cứng cáp nhưng tương đối nhỏ, mỏng và răng cưa.
Chiều dài mồng trung bình, đo từ gốc trước đầu cho đến gốc sau đầu trong tầm từ 7 đến 9.2 cm. Độ cao mồng trung bình, đo từ chóp gai cao nhất đến gốc mồng là 3.9 đến 5.1cm. Tích và dái tai phát triển nhưng thường nhỏ hơn gà lai và mặt có màu đỏ tía giống như mồng. Hai tích khi quan sát từ phía trước thường nằm sát hơn so với gà lai, vốn tương đối rộng. Chiều dài trung bình của dái tai là từ 1.5 đến 3.5cm, chiều rộng trung bình là từ 1.7 đến 3.4cm. Chiều dài trung bình của tích là từ 3 đến 3.4cm, chiều rộng trung bình là 2.6 đến 3.7cm.
Mồng gà mới bẫy được chuyển thành màu phớt xanh trong môi trường nuôi nhốt. Dái tai có nhiều màu và kích cỡ, màu đỏ tuyền, trắng tuyền hay phớt đỏ. Màu phớt đỏ là phổ biến nhất. Màu xung quanh tròng đen ở hầu hết các cá thể là hanh đỏ khác với đa số cá thể lai vốn trắng hay hanh vàng. Cánh rất phát triển và dài hơn chiều dài thân, tính cả đuôi.
Chiều dài trung bình của cánh khi giương hết cỡ tầm từ 63 đến 76cm. Chiều rộng trung bình của cánh là từu 20 đến 23.6 cm. Màu lông trước ngực là màu đen ánh xanh, cánh vai màu đỏ sẫm, lông bao màu đen, một số lông có chỉ phớt đỏ, lông bay thứ nửa đen, nửa nâu vàng và lông bay sơ màu đen với chỉ ngắn hanh vàng ở giữa. Số lông bao đầu tiên ở mỗi bên là số 3, số lông cánh sơ ở mỗi bên từ 9 đến 11 trong khi số lông cánh thứ ở mỗi bên từ 12 đến 14.
Lông bờm chuyển từ cam hanh đỏ ở đầu cho đến đỏ hanh vàng gần xuống đến lưng. Màu lưng đỏ sẫm. Thân gà rừng khá mảnh dẻ và thuôn như chiếc thuyền, chân mảnh khảnh và trơn láng. Chiều dài trung bình của thân là từ 35 đến 38.1cm. Chiều dài trung bình của cẳng chân là từ 8.1 đến 9.4cm. Đường kính trung bình của đùi từ 3.4 đến 3.9cm.
Cẳng chân gà rừng có màu xanh ngọc trong khi cẳng chân gà lai có màu đen xanh, hanh lục hay hanh vàng. Cựa có hình tam giác và có xu hướng cong lên ở gà già. Chiều dài trung bình của cựa ở gà trống trưởng thành từ 1.9 đến 3.2cm.
Gà rừng trống lai thường nuôi hoặc lớn hơn hoặc nhỏ hơn so với gà rừng rặt. Đầu thường lớn hơn, mồng và tích cũng lớn, nhám và dày hơn. Lông ngực có những vệt hanh vàng hay nâu trên nền đen. Một trong những khác biệt quan trọng giữa gà rừng và gà lai là tiếng gáy. Tiếng gáy của gà lai hoặc kéo dài hơn hoặc lên quá cao trước khi ngắt đột ngột so với gà rừng rặt. Gà lai cũng gáy nhiều hơn so với gà rặt. Tuy nhiên gà lai có tiếng gáy gắt hơn.