Ở chân gà
Nếu về mùa Xuân và Hạ thấy huyết đỏ tươi là lành, đen là độc. Nếu về mùa Thu và Đông thấy huyết sâm đen là tốt, đỏ là độc.
Chia bốn mùa thuộc bát quái:
– Ở cung Chấn là mùa Xuân
– Ở cung Đoài là mùa Thu
– Ở cung Ly là mùa Hạ
– Ở cung Khảm là mùa Đông
Phân chia ngũ hành thuộc bát quái mà suy ra:
– Ở cung: Ly là hành Hoả
– Ở cung: Khảm là hành Thuỷ
– Ở cung: Đoài là hành Kim
– Ở cung: Tốn và Chấn là hành Mộc
– Ở cung: Cấn và Khôn là hành Thổ
Định nghĩa tượng trưng của bát quái:
– Càn là Trời – Khôn là đất
– Khảm là nước – Cấn là núi đồi
– Chấn là điện, sấm sét – Ly là lửa
– Tốn là gió – Đoài là đầm hồ sông ngòi
Chia tám phương thuộc bát quái:
– Ở Chấn là chính phương Đông
– Ở Tốn là phương Đông Nam
– Ở Ly là thuộc về chính Nam
– Ở Khôn là thuộc về Tây Nam
– Ở Đoài là thuộc về chính Tây
– Ở Càn là thuộc về Tây Bắc
– Ở Khảm là thuộc về chính Bắc
– Ở Cấn là thuộc về Đông Bắc
Xem huyết thuận bốn mùa
Mùa xuân xanh là huyết thuận
Mùa hạ hồng là huyết thuận.
Mùa thu đen là huyết thuận.
Mùa đông vàng là huyết thuận
Dấu hiệu Thiên hình:
Dấu hiệu khảm bao:
Dấu hiệu Bach hổ:
Dấu hiệu Tam Khưu:
Dấu hiệu ngũ mộ:
Nếu thấy ngũ hành hiện ở bên ngoài, thì căn cứ vào ngũ hành mà luận đoán:
Thí dụ: thấy Kim thì luận đoán là mộ kim tinh, đại để như vậy.
Hoặc ở canh tân là thận đậu mạch; Nếu thấy mộc thì luận đoán mạch ở Dần Mão, Giáp Ất lại”.
Nếu thấy ngôi trên Kim khắc vào mộ mộc thì luận nó là có tội./.
Phương hướng chỉ dẫn huyết của gia truyền:
Ngũ hành định huyết
Huyết định ra tứ chi
Tứ chi lập ra tám huyết
Tám huyết định ra bản mệnh
Bản mệnh định ra quẻ (tức là quái)
Quẻ định ở cung giữa
Cung giữa hợp làm bản mệnh
Bản mệnh thuộc ngũ hành.
Ngũ hành là:
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Nếu thấy
Kim đứng ở cung Kim
Mộc đứng ở cung Mộc
Thuỷ đứng ở cung Thuỷ
Hoả đứng ở cung Hoả
Thổ đứng ở cung Thổ
Là bốn mùa đều vượng!
Thứ thời (4 mùa) chia làm 8 tiết
Tám tiết định ra thiên can và địa chi
– Mười đơn vị thiên can là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý
– Mười hai dơn vị chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Thiên can định ra bát quái (8 quẻ). Từ quẻ thứ nhất đến quẻ thứ mười hai lại chia ra làm bốn mùa.
Bốn mùa chia ra làm 8 huyết. Tám huyết định làm bốn vị tốt lành và bốn ngôi dộc dữ.
trong đoài, ngoài chấn là tốt lành
Trong khảm, ngoài ly là độc dữ
Từ cung giữa trở lên hợp làm trời
Từ cung giữa trở xuống hợp làm bản mệnh
Bản mệnh hợp ngũ hành
Ngũ hành chuyển đổi ra quẻ:
Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc
Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ
Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ
Thuỷ phá Thổ, Thổ dưỡng Mộc
Thuỷ với Hoả cùng sung khắc
Kim khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ
Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim
Theo quẻ (=quái) bản mệnh:
Năm chuyển đổi ra ngũ hành
Ngũ hành chuyển đổi ra tháng
Tháng chuyển ra ngày
Ngày chuyển ra giờ
Giờ chuyển đổi ra khắc (= 5 phút 1 khắc)
Khắc sung với giờ, giờ sung với ngày, ngày sung tháng, tháng sung năm, năm sung vận.
Cứ y như phép ấy mà luận:
Lấy chân phải là tượng trưng người ngoài, lấy chân trái là biểu thị vào bản mệnh chủ.
Không kể là gà sống hay gà mái, quyết đoán là lành hay dữ. Nếu thấy ngón cái tươi, ngón trong phù, ngón ngoài cúi xuống chỉ không, thời, có ốm, nhưng không việc gì.
Nếu thấy ngón cái vẩy qua, lắc lại và ủ mặt xuống, đồng thời ngón trong dấu vào trong là động xung với ngón ngoài đều chỉ vào trong: thời bệnh nguy.
Nhược bằng cái tươi, ngón trong động thời chẳng phải lo.
Bằng thấy huyết đóng thời cũng khá. Hễ thấy huyết rời rạc, lăm tăm thời bệnh chẳng mòng (= mơ mòng). Ngón cun chỏ vào trong thì bởi thổ trạch của tổ tông thân thuộc xấu, như có tà ma; nếu chỏ lên đốt trên là do tinh tổ, Tổ phụ quở phạt, nếu chỏ vào đốt giữa là do anh chị em hành; nếu chỏ xuống đốt dưới là do: mãnh yêu làm hại. Nếu chỏ vào ngón cái thời do: Quý nhân, Thành hoàng; nếu chỏ ra ngoài là do ngoại tà quấy nhiễu, chỉ lên đốt trên là do chúa thuỷ động đình, bán thiên hành. Chỉ vào đốt giữa là do yêu tinh dịch lệ hành; nếu chỉ vào đốt dưới là do Đạo lộ thương vong quấy nhiễu. Lễ đảo thi bệnh nhân không chết.
Chọn gà khi ngủ, khi chạy
Người sành chơi còn chọn gà khi ngủ: Gà ngủ trên cây thòng đầu xuống đất, hoặc ngủ dưới đất trải dài cổ, xoãi cánh là kiểu “ngủ đầu xà”, hay “tử mỵ”, gà này cũng thuộc loại hiếm quý, gan dạ, đại tài. Nhưng quan trọng nhất trong gà đá là đòn và thế. Ở miền Trung, cựa gà được bịt bằng băng keo, chủ yếu để gà dùng đòn, thế thi đấu, hạn chế đấu cựa. Những thế đòn tốt là: cột kèo hai bên đá sỏ ngang, hoặc đá bản lưng (mã kỵ); gà đi dưới thì luồn lách đâm lườn, xỏ vỉa hoặc đá mé hầu. Một số đòn thế khác như đá khấu, mé, cần ba, quăng chân không cũng là những đòn thế hiểm.
Gà chạy kiệu cũng là loại gà tài:
Gà chạy kiệu cũng là loại gà tài: khi xáp trận gà kiệu chỉ tranh đá đối phương một vài hiệp rồi bỏ đối phương chạy vòng theo di (mành), đối phương chạy theo thì quay lại đá tạt vào mặt khiến đối phương phải đui mắt hoặc gãy mỏ; song quý nhất trong giao đấu là loại gà biết sinh thế, bất kỳ các loại thế nào của đối phương cũng ứng tác để trừ và sinh thế khác đánh trả….
Quan trọng nhất trong gà đá là đòn và thế. Ở miền Trung, cựa gà được bịt bằng băng keo, chủ yếu để gà dùng đòn, thế thi đấu, hạn chế đấu cựa. Những thế đòn tốt là: cột kèo hai bên đá xỏ ngang, hoặc đá bản lưng (mã kỵ); gà đi dưới thì luồn lách đâm lườn, xỏ vỉa hoặc đá mé hầu. Một số đòn thế khác như đá khấu, mé, cần ba, quăng chân không cũng là những đòn thế hiểm.
Chăm sóc gà rất khó đò hỏi sự siêng năng khi cho ăn cần treo lên cao để gà có thể nhón chân vì thế gà đá sẽ hay hơn.Khi cho ăn cần đãi sạch lúa đôi khi cho ăn thêm mồi có thể là thịt bò, tép, lươn. ngoài ra cho ăn thêm giá hoặc cà để gà mát đá đòn mạnh. Cần chọn gà có những vảy sao để có thể chống trả đòn hiểm của đối thủ:hai hàng trơn, tứ trực,song âm song dương, ám long…Ngoài ra có thể chọn những gà có vảy:gạc thập, xuyên đao,huyền trâm, hàm long, địa giáp..vì có thể giết địch thủ rất nhanh chóng.