vì loài thủy cầm cổ nhất đã biết, Vegavis iaai, có niên đại từ Creta muộn, những tổ tông của bộ hùng kê đại chiến cũng phải sinh sống cùng thời có những động vật như Tyrannosaurus rex, dù rằng ko nhất thiết phải trên cộng một khu vực như loài khủng long cụ thể này.
Trên thực tại, sinh tồn 1 ít những hóa thạch rời rạc của các sinh vật được coi là mang dạng hùng kê đại chiến trong khoảng công đoạn thuộc kỷ Creta, trong đó đơn vị hóa thạch đáng chú ý nhất là Austinornis. Trước đây được đề cập đến như là Ichthyornis lentus, Graculavus lentus hay Pedioecetes lentus, 1 phần xương ống chân trái của nó được tậu thấy tại Austin Chalk với niên đại Hậu Phấn trắng sắp Fort McKinney (Texas). Loài chim này thân thiện có Galliformes 1 cách chắc chắn, mà việc nó có là 1 phần của bộ này hay thuộc về một nơi nào trong nhánh dạng hùng kê đại chiến ít được biết tới của Galloanserae vẫn chưa rõ ràng.[8]
những hóa thạch khác thuộc đại Trung sinh được kể tới như là Galliformes sở hữu độ cứng cáp thấp hơn đáng kể: Loài Gallornis khôn xiết lạ mắt sống tại khu vực bây giờ là Pháp khoảng 140-130 triệu năm trước (Ma) mà người ta cũng với thể coi nó là chim dạng Ornithurae. mặc dù xác suất nó là dạng chọi gà rất cổ chẳng thể bị đào thải, mà niên đại quá cổ của nó làm điều này dường như là chẳng thể. Trường hợp của Austinornis chỉ ra rằng rất mang thể mang sự lộn xộn trong việc nhận dạng các loại chim được coi là dạng chơi đá gà sở hữu những dạng Ornithurae nguyên thủy hơn, như Ichthyornis.
loại vật PVPH 237 trong khoảng thành hệ Portezuelo Creta muộn (tầng Turones-tầng Cognac, khoảng 90 Ma) trong khu vực Sierra de Portezuelo (Argentina) mang thể là ứng viên mang vẻ hợp lý hơn cả cho dạng chiến kê nguyên thủy. Nó là một phần xương quạ của chim hiện đại (Neornithes), với hình dáng phổ biến và chi tiết là gá lắp rộng và sâu cho cơ nối xương quạ và xương cánh tay (xương phần tay trên) gần giống như các mẫu dõi hạ tầng hơn của chim dạng chiến kê[9]
>>
da ga onlineKỷ Paleogen có một đôi họ chim dạng chiến kê bây giờ đã tuyệt chủng, được gọi là Gallinuloididae, Paraortygidae và Quercymegapodiidae. Trong công đoạn đầu đại Tân sinh, với thêm một vài dạng chim té sung, mang thể là Galliformes thời kỳ đầu hoặc chẳng hề, cho dù nếu chúng thuộc về bộ này thì chúng có lẽ không thể thuộc về các họ còn loài sinh tồn:
†Argillipes (London Clay, Tiền Eocen tại Anh)
†Coturnipes (Tiền Eocen tại Anh, Virginia, Hoa Kỳ?)
†Paleophasianus (Willwood, Tiền Eocen tại quận Bighorn, Hoa Kỳ)
†Percolinus (London Clay, Tiền Eocen tại Anh)
†Amitabha (Bridger, Trung Eocen tại Forbidden City, Hoa Kỳ) - dạng trĩ?
†"Palaeorallus" alienus (Trung Oligocen tại Tatal-Gol, Mông Cổ)
†Anisolornis (Santa Cruz, Trung Miocen tại Karaihen, Argentina)
>>
da ga cua sat trong khoảng giữa thế Eocen trở đi - khoảng 45 Ma hay đại chiếc tương tự - các dạng đá gà kiểu hiện đại đã được biết tới, và chúng thay thế hoàn toàn cho các họ hàng cổ hơn vào đầu kỷ Neogen. vì các đại diện sớm nhất của các họ dạng đá gà đương đại còn sống sót nghe đâu thuộc về họ Phasianidae - họ trẻ nhất trong bộ Galliformes - nên những họ khác của bộ Galliformes phải chí ít có khởi thủy từ đầu thế Eocen mà cũng mang thể cổ đến tận Creta muộn. doanh nghiệp phân loại hóa thạch Tristraguloolithus cracioides dựa trên những mảnh vỏ trứng hóa thạch trong khoảng thành hệ Oldman Creta muộn tại miền nam Alberta (Canada) là tương tự như trứng của chachalaca,[10] mà bởi không mang các vật liệu xương nên mối quan hệ giữa chúng không thể xác định, ko kể 1 điều là chúng tuồng như không phải là từ khủng long ko biết bay.
các chi tiên tiến của Phasianidae bắt đầu hình thành vào khoảng nhãi con giới Oligo-/Miocen, khoảng 25-20 Ma. một điều vẫn chưa biết rõ là những chi còn tồn tại của các họ dạng chiến kê khác và cổ hơn với bắt nguồn vào cùng thời gian này hay sớm hơn ko, dù rằng ít nhất ở những dạng phới Tân thế giới thì những dạng thuộc tiền-Neogen dường như thuộc về những chi sau này đã bị tuyệt chủng.
>>
da ga truc tuyen 1 số các hóa thạch trong khoảng kỷ Paleogen tới Trung Neogen rất cứng cáp là thuộc về bộ Galliformes, nhưng mối quan hệ xác thực của chúng trong bộ thì không thể xác định:

Bộ xương của Palaeortyx, Muséum national d'histoire naturelle, Paris
†Austinornis (Austin Chalk, Creta muộnc tại Fort McKinney, Hoa Kỳ) - đặt vào đây ko chắc chắn, trước đây gọi là Graculavus/Ichthyornis/Pedioecetes lentus
†Procrax (Trung Eocen? - Tiền Oligocen) - Cracidae? Gallinuloididae?
†Palaeortyx (Trung Eocen -? Tiền Pliocen) - Phasianidae hay Odontophoridae
†Palaeonossax (Brule, Hậu Oligocen tại South Dakota, Hoa Kỳ) - Cracidae?
†Taoperdix (Hậu Oligocen) - Gallinuloididae? Bao gồm cả "Tetrao" pessieti
†Archaealectrornis (Oligocen) - Phasianidae?
†Galliformes gen. Et sp. Indet. (Oligocen) - trước đây trong Gallinuloides; Phasianidae? mẫu vật MCZ 342506. Xương cánh tay đầu sắp của chim phệ hơn của Gallinuloides[11]
†Archaeophasianus (Oligocen? - Hậu Miocen) - Phasianidae? (Tetraoninae?)
†Palaealectoris (tầng hóa thạch Agate, Tiền Miocen tại thị xã Sioux, Hoa Kỳ) - Tetraoninae?
†Linquornis (Trung Miocen)
†Palaeoalectoris (Hạ Thảo Loan (下草湾), Trung Miocen tại huyện bốn Hồng, Túc Thiên, Giang Tô, Trung Quốc)
†Shandongornis (Trung Miocen)
†"Cyrtonyx" tedfordi (Barstow, Hậu Miocen tại Barstow, Hoa Kỳ)
Danh sách những tổ chức phân dòng chính[sửa | sửa mã nguồn]
Trong 1 thời kì dài, những dạng trĩ, gà gô và bằng hữu được gộp cồng kềnh trong họ Phasianidae, mang thể gộp hay vứt bỏ chọi gà tây, đá gà thông, phới Tân thế giới và gà chọi Phi, được chia ra khiến cho 2 phân họ - gọi là Phasianinae (các dạng giống như trĩ) và Perdicinae (các dạng giống chiến kê gô). Sự bố trí thô sơ tương tự đã từ lâu được coi là cần sửa đổi, nhưng ngay cả sở hữu sự cung cấp của những Đánh giá trình tự ADN cũng như các nguyên tắc diễn đạt theo nhánh đương đại thì nảy sinh loài của họ Phasianidae vẫn chưa có lời giải đáp toàn vẹn.[2][5][6][12]
Danh sách chưa kiên cố các đơn vị phân dòng bậc cao trong bộ Galliformes, được liệt kê theo trình tự tiến hóa, là:[2][5][6][12]
Họ †Paraortygidae
Họ †Quercymegapodiidae
Họ †Sylviornithidae
Họ Megapodiidae
Họ Cracidae
Siêu họ Phasianoidea
Họ †Gallinuloididae - đặt vào đây không cứng cáp
Họ Odontophoridae - phới Tân toàn cầu
Họ Numididae - chọi gà Phi
Họ Phasianidae - Trĩ, gà gô và các họ hàng
Phân họ Arborophilinae - gà gô rừng
Phân họ Coturnicinae - phắn Cựu thế giới, gà gô bụi, đa đa cựa
Phân họ Pavoninae - Công, trĩ sao
Phân họ Gallininae - đa đa và gà chọi rừng
Phân họ Meleagridinae - chơi đá gà tây
Phân họ Perdicinae - gà gô xám (có lẽ thuộc về Meleagridinae hay Phasianinae)
Phân họ Tetraoninae - gà thông
Phân họ Phasianinae - Trĩ thật sự
Mối quan hệ giữa đa dạng loài trĩ và gà gô vẫn chưa được sáng tỏ và phần nhiều bị thất bại do phân tỏa thích ứng (ở dạng thứ nhất) và tiến hóa hội tụ (ở dạng thứ hai).[3] bởi thế, cả họ gộp đống Phasianidae cũng với thể được coi như là 1 phân họ Phasianinae độc nhất vô nhị. chọi gà thông, gà chọi tây, trĩ thật sự v.v lúc đó phát triển thành các tông của phân họ này, tương tự như Coturnicinae nói chung được tạo thành những tông cun cút và đa đa cựa.[5][6][13]
chú ý rằng công ty phân dòng Perdicinae bị ngừng một cách ko vững chắc là chỉ bao gồm chi Perdix và có lẽ 1 tới nhì chi khác. gà gô tại châu Âu ko mang quan hệ họ hàng sắp sở hữu các dạng tương tự như gà gô khác trong bộ Galliformes được chỉ ra do màu sắc quái đản nam nữ của chúng và 1 loạt (trên 14) lông lái, các đặc điểm chi sẻ có các dạng trĩ khác tiến hóa hơn. bên cạnh đó, trong số này, mối quan hệ giữa chúng là hoàn toàn mờ mịt; hoàn toàn ko rõ là nó sắp sở hữu chiến kê tây hay sắp mang các dạng trĩ đuôi ngắn một mực, như Ithaginis, Lophophorus, Pucrasia và Tragopan.[2][4][5][6][12]